Trận Đồi Thịt Băm là tên gọi của trận chiến giữa Quân đội Nhân dân Việt Nam với Quân lực Hoa Kỳ từ ngày 10 tháng 5 đến ngày 20 tháng 5 năm 1969 ở Thừa Thiên (nay thuộc Thừa Thiên-Huế). Trận chiến nổ ra khi Hoa Kỳ tập trung lực lượng gần 2.000 quân dưới sự yểm trợ mạnh của hoả lực phi pháo để đánh chiếm quả đồi (núi A Bia, phía Mỹ gọi là Cao điểm 937) do 2 tiểu đoàn đối phương chiếm giữ.
Trận đánh diễn ra chủ yếu bằng bộ binh, với việc quân Mỹ leo lên đồi cao tấn công quân Giải phóng cũng ra sức cố thủ. Dù được yểm trợ mạnh bởi pháo binh và không quân, các cuộc tấn công của Mỹ đã nhiều lần đẩy lùi bởi thời tiết, tai nạn, và đặc biệt là sự phòng ngự có hiệu quả cao của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ngọn đồi này sau trận đánh đã được lính Mỹ gọi là "Đồi Thịt Băm" - Hamburger Hill, như một cách thể hiện độ khốc liệt và thương vong cao của lính Mỹ. Theo Samuel Zaffiri, tác giả của cuốn Hamburger Hill, quân Mỹ đã chiếm được ngọn đồi sau 10 ngày chiến đấu với số thương vong lên tới 72 người chết và 372 bị thương, nhưng đã phải bỏ vị trí này một tháng sau đó.
Bối cảnh
A Bia là điểm cao đột xuất (937m) nằm giữa vùng rừng núi trùng điệp gần biên giới Việt-Lào (cách 1,9 km). Đỉnh A Bia có ba mỏm đứng thế chân kiềng cao xấp xỉ nhau, cách nhau khoảng 400m. Trước đây Mỹ đã lên A Bia đóng dã ngoại, nay còn nguyên công sự, xung quanh chất đống nhiều vỏ đồ hộp... Đỉnh A Bia bị bom pháo phát quang nham nhở, trơ lại những thân cây khô cháy.Toàn bộ núi là một dải gồ ghề, hoang dã bao phủ bởi rừng với hai hoặc ba lần tán, tre mọc thành bụi dày đặc, và cỏ voi cao ngang thắt lưng mà trong một số trường hợp cao hơn cả một xe bọc thép M-113. Các dân tộc địa phương gọi Ấp Bia là "núi ẩn mình của muông thú".
Kế hoạch của 2 bên
Hoa Kỳ
Các trận đánh trên Cao điểm 937 xảy ra tháng 5 năm 1969, là giai đoạn hai của Chiến dịch Apache Snow, một chiến dịch gồm ba giai đoạn nhằm mục đích tiêu diệt Quân đội Nhân dân Việt Nam trong khu vực thung lũng A Sầu (A Shau), một mắt xích trong tuyến đường chi viện vào miền Nam Việt Nam. Năm 1966, Quân đội nhân dân Việt Nam đã thành công trong việc đánh chiếm doanh trại của Mỹ trong thung lũng A Shau (Trận A Sầu) và thiết lập sự hiện diện tại đây. Sau đó các nỗ lực liên tục của Mỹ nhằm tái chiếm thung lũng đã không thành công. Trung tướng Richard G. Stilwell, chỉ huy của Quân đoàn 24 của Hoa Kỳ, quyết định huy động lực lượng tương đương với hai sư đoàn được hỗ trợ mạnh bởi pháo binh và không quân để hoàn thành nhiệm vụ.
Lực lượng tham chiến tại Đồi 937 gồm 3 tiểu đoàn của Sư đoàn Không vận 101, chỉ huy là Thiếu tướng Melvin Zais. Các đơn vị của Lữ đoàn 3 (chỉ huy bởi Đại tá Joseph Conmy) gồm Tiểu Đoàn 3 trung đoàn 187 Bộ Binh (Trung tá Weldon Honeycutt), Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 501 bộ binh và Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 506 bộ binh (Trung tá John Bowers). Hai tiểu đoàn của QLVNCH (2/1 và 4/1) đã được giao nhiệm vụ hỗ trợ cho Lữ đoàn 3. Các đơn vị khác tham gia trong chiến dịch bao gồm các Trung đoàn 9, Tiểu đoàn 3 thuộc Trung đoàn Kỵ binh 5 và Trung đoàn 3 QLVNCH.
Kế hoạch của Đại tá Conmy là dùng 5 tiểu đoàn mở cuộc tấn công vào thung lũng bằng trực thăng vào ngày 10-5-1969, để tìm kiếm cũng như phá hủy các kho quân nhu của Quân đội nhân dân Việt Nam. Kế hoạch tổng thể của cuộc tấn công là Thủy quân lục chiến và các đơn vị trinh sát tiến về phía biên giới Lào, trong khi các đơn vị VNCH cắt đường giao thông qua thung lũng. Trung đoàn 501 và 506 sẽ tiêu diệt đối phương và ngăn chặn các tuyến đường trốn thoát sang Lào. Nếu một tiểu đoàn đụng độ mạnh với QĐNDVN, Conmy sẽ hỗ trợ nó bằng trực thăng với một trong các đơn vị khác. Về lý thuyết, với sức cơ động cực mạnh nhờ trực thăng, Sư đoàn 101 có thể phản ứng đủ nhanh để ngăn chặn bất kỳ đơn vị QĐNDVN nào. Khi một tiểu đoàn của Hoa Kỳ phát hiện một đơn vị QĐNDVN, nó sẽ tổ chức đánh chặn cho đến khi một tiểu đoàn tăng cường có thể cắt đường rút lui và dùng hỏa lực vượt trội tiêu diệt đối phương.
Tuy nhiên, Hoa Kỳ đã đánh giá thấp sức mạnh thực tế của QĐNDVN. Là bậc thầy ngụy trang, QĐNDVN hoàn toàn che giấu các căn cứ của họ khỏi trinh sát trên không của Mỹ. Khi di chuyển, họ thường làm vào ban đêm, dọc theo những con đường mòn dưới tán rừng rậm rạp. Họ thực hiện liên lạc và kiểm soát chủ yếu bằng thư và điện tín, không sử dụng thiết bị điện tử để tránh bị theo dõi. Qua kinh nghiệm trong nhiều cuộc đụng độ lớn hơn cho thấy họ thường chỉ giao chiến trong một thời gian ngắn, gây tổn thất lớn nhất có thể cho Mỹ và sau đó nhanh chóng rút đi trước khi phải hứng chịu hỏa lực áp đảo của Mỹ. Chiến đấu kéo dài như tại Đắk Tô hay trận Ia Đrăng là tương đối hiếm. Honeycutt dự đoán tiểu đoàn của ông có đủ năng lực để thực hiện một cuộc trinh sát trên Cao điểm 937 mà không cần tăng cường hơn nữa, mặc dù ông đã yêu cầu quân dự bị của lữ đoàn, và Đại đội Bravo của mình, sẵn sàng hỗ trợ.
Quân đội Nhân dân Việt Nam
Sau khi liên tục giao chiến với Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ trong Chiến dịch Dewey Canyon vào tháng 2, QĐNDVN đã di chuyển Trung đoàn 6, 9 và 29 vào khu vực thung lũng A Lưới để tái trang bị, bổ sung thiệt hại.
Thung lũng A Lưới nằm về phía tây bắc thành phố Huế khoảng 30 km, được bao bọc với một số điểm cao như Động So (1.100m), Ba Lao (1.400m), A Bia (937m) và Động Ràng... Sông A Ráp và đường 14 chạy dọc chiều dài thung lũng. Phía tây bắc có sông Đáp Lim, A Lưới, nối với Huế bằng đường số 12.
Kế hoạch càn quét A Lưới của Mỹ đã được Bộ tư lệnh Quân khu Trị-Thiên dự kiến từ trước. Do vậy, từ đầu tháng 3 năm 1969 quân khu đã điều Trung đoàn 3 vào chuẩn bị chiến trường sẵn sàng đánh Mỹ. Sư đoàn trưởng Chu Phương Đới, Chính ủy Nguyễn Xuân Trà cùng đi với trung đoàn.
Chiều ngày 7 tháng 5, Đảng ủy Trung đoàn họp mở rộng. Sau khi nghe Kiều Tam Nguyên, Bí thư Đảng ủy Trung đoàn quán triệt mục đích, yêu cầu của đợt hoạt động, hội nghị dành nhiều thời gian thảo luận chọn một trong các phương án tác chiến do Trung đoàn trưởng Ma Vĩnh Lan trình bày.
Một, với 1 đại đội pháo phòng không 12,7mm, 1 đại đội cối 82mm được tăng cường 1 tiểu đoàn bộ binh, trung đoàn sẽ vận dụng chiến thuật vận động tiến công kết hợp chốt, lấy đại đội, trung đội xuất kích ngắn, tập kích vào từng cụm quân Mỹ đóng dã ngoại. Tuỳ tình hình diễn biến cụ thể, trung đoàn chuẩn bị phương án vận động tiến công kết hợp chốt cấp trung đoàn, tiêu diệt tiểu đoàn Mỹ. Để đạt được mục đích đó, trung đoàn phải tạo cho được cụm điểm chốt liên hoàn nhằm thu hút quân Mỹ vào sâu hơn nữa, tạo khả năng và điều kiện cho các phân đội cơ động tiến công tiêu diệt quân dã ngoại và quân ứng cứu.
Hai, không xây dựng cụm chốt, chỉ dùng lực lượng cơ động tiến hành mật tập phục kích, tập kích, xuất kích ngắn để tiêu diệt quân Mỹ đóng dã ngoại. Mỹ đang hung hăng, đang có tham vọng quét lực lượng Việt Nam ra xa, nếu gặp lực lượng chủ lực nhất định Mỹ sẽ bâu lại "quét", lúc đó sẽ sử dụng lực lượng cơ động để tập kích vào những khu vực quân Mỹ co cụm.
Sau nhiều giờ tranh luận, hội nghị nhất trí chọn phương án một, nhưng cũng sẵn sàng chuyển sang phương án hai. Trung đoàn chọn A Bia để xây dựng cụm chốt.
15 giờ ngày 8 tháng 5, các đơn vị xuất phát hành quân chiếm lĩnh trận địa. Tiểu đoàn 8 được tăng cường Đại đội 14 cối 82mm xây dựng cụm chốt ở A Bia. Tiểu đoàn 7 bố trí ở khu vực các điểm cao 903 và 916. Đại đội 16 cơ động dọc phía tây đường số 14 đoạn A Sầu - A Lưới. Khối hỏa lực còn lại do trung đoàn trực tiếp nắm. Tiểu đoàn 9 làm lực lượng dự bị, trước mắt có nhiệm vụ chuyển gạo, đạn từ A Rum vào A Lưới. Các chiến sĩ trinh sát bám sát từng mũi tiến quân của Mỹ.
Diễn biến
Mở màn trận đánh
10 giờ 15 phút ngày 10 tháng 5, Tiểu đoàn 8 do tiểu đoàn trưởng Đinh Xuân Bài chỉ huy nổ súng tiến công 1 đại đội thuộc Tiểu đoàn Dù số 3 Mỹ trên các điểm cao 400, 500, cách đông bắc A Bia khoảng 2 km. Đại đội 5 được tăng cường hai cối 82mm, chia làm ba mũi, mũi chính đánh ngang đội hình địch ở "yên ngựa" rồi tỏa ra hai hướng đánh ngược lên các đỉnh 500 và 400, để kết hợp với hai mũi đánh từ phía sau mỏm 500 xuống.
Trên mỏm cao 400, sau khi bí mật tiếp cận mục tiêu, đến giờ nổ súng, tiểu đội 10 diệt gọn 1 tiểu đội Mỹ, sau đó phát triển xuống "yên ngựa", phối hợp với trung đội 3 đánh ngược lên, ép quân Mỹ vào giữa.
Cùng lúc đó ở mỏm 500, tiểu đội 9 đánh lên đỉnh, nhưng trúng hai quả mìn định hướng Mỹ gài sẵn, thương vong gần hết. Mũi phát triển từ "yên ngựa" lên cũng bị quân Mỹ từ trên mỏm bắn xuống, đội hình tiến công ở hướng này bị chững lại. Đại đội 5 phải dùng cối 82 ly và B-40 đặt từ đỉnh 400 bắn sang chi viện nhưng vẫn không dứt điểm được. Pháo binh Mỹ dồn dập bắn vào mỏm 400, kết hợp với hai máy bay trực thăng rà sát ngọn cây quét đại liên, thả lựu đạn xung quanh điểm cao 500. Trước tình hình đó, tiểu đoàn 8 lệnh cho đại đội 5 lùi về A Bia tiếp tục xây dựng trận địa chốt. Trận chiến đấu diễn ra không quá một giờ, hàng chục lính Mỹ bị diệt nhưng tiểu đoàn 8 do phân tán lực lượng, không tập trung vào mục tiêu chủ yếu là sở chỉ huy Mỹ, để quân Mỹ kịp tổ chức chống cự gây nhiều tổn thất.
Ở hướng tiểu đoàn 7, ngay phút đầu ban chỉ huy tiểu đoàn đã tập trung hỏa lực chi viện cho đại đội 1 đánh lên điểm cao 903, diệt hàng chục lính Mỹ. Mỹ đưa 6 máy bay trực thăng lên chi viện và bốc 2 đại đội ở đây về phía nam.
Quân Mỹ biết đã gặp lực lượng chủ lực, tăng cường độ đánh phá và dùng trực thăng vũ trang thay nhau trinh sát khu vực xảy ra chiến sự.
Ngày 11 tháng 5, Honeycutt giao cho 2 đại đội Alpha và Delta do thám phía bắc và tây bắc núi A Bia, trong khi các đại đội Bravo và Charlie tăng cường tại các tuyến đường khác nhau. 13 giờ ngày 11 tháng 5, Mỹ đổ 2 tiểu đoàn xuống các điểm cao 903, 916 và A Bia. Phía QDNDVN, Trung đoàn trưởng lệnh cho tiểu đoàn 7 để 1 đại đội ém quân tại khu vực 903, 916, còn 3 đại đội cơ động bám sát, tiến công Mỹ.
Khi ra ngoài bãi đáp trực thăng (BĐ) trên sườn núi phía bắc, Đại đội Bravo đã giao tranh dữ dội với QĐNDVN trong khu vực 1 km vào cuối ngày. Honeycutt nhanh chóng chỉ đạo máy bay trực thăng vũ trang AH-1 Cobra, trang bị rocket và súng máy hạng nặng để hỗ trợ cho một cuộc tấn công vội vã. Trong rừng rậm, những chiếc Cobra nhầm lẫn tiểu đoàn 3/187 Mỹ trên bãi đáp với một đơn vị QĐNDVN và tấn công, giết chết hai người và làm bị thương 35, bao gồm cả Honeycutt. Sự kiện bắn lầm này phá vỡ đội hình và sự chỉ huy, và buộc tiểu đoàn 3/187 rút lui vào vị trí phòng thủ đêm. Tuy nhiên, liên lạc xác nhận rằng một lực lượng đáng kể QĐNDVN đã có mặt, Honeycutt ước tính là cần tăng cường một trung đội hoặc đại đội.
Cũng đêm ngày 11, tiểu đoàn đặc công của quân khu tiến công sở chỉ huy lữ đoàn dù 3 Mỹ ở căn cứ Động Tranh. Sáng ngày 12 tháng 5 Mỹ phải đưa tiểu đoàn 2 trung đoàn 506 ở A Lê Thiêm về bảo vệ sở chỉ huy lữ đoàn. Mỹ rút tiểu đoàn 2 về Động Tranh, phía bắc A Bia không còn lính chốt giữ. Ban chỉ huy Trung đoàn 3 quyết định điều tiểu đoàn 9 do tiểu đoàn trưởng Vượng và chính trị viên Thụy chỉ huy hoạt động từ địa đạo Lam Sơn đến khu vực Bãi Ổi. Tiểu đoàn 8 tiếp tục củng cố trận địa chốt, chuẩn bị nhiều đường xuất kích ở A Bia.
Cũng trong hai ngày này, Honeycutt điều khiển các đại đội của mình tới các vị trí cho một cuộc tấn công phối hợp ngày 13 tháng 5 nhưng đã thất vọng bởi địa hình khó khăn và sự kháng cự của QĐNDVN. Một đơn vị của Đại đội Delta, rơi vào một khe núi dốc lầy lội vào ngày 12 Tháng Năm, phải chịu đựng tổn thất rất cao trong hai ngày.
Quân Mỹ đẩy mạnh tấn công
Buổi trưa ngày 13 Tháng 5, chỉ huy lữ đoàn Dù, Đại tá Conmy, đã quyết định nó sẽ cắt đứt chi viện của QĐNDVN từ Lào và hỗ trợ Honeycutt bằng cách tấn công A Bia từ phía nam. Đại đội Bravo được trực thăng đưa lên Đồi 916, nhưng phần còn lại của tiểu đoàn di chuyển bằng đường bộ, từ một khu vực cách 4 km từ Đồi 937, và cả Conmy và Honeycutt dự kiến Tiểu đoàn 1/506 sẽ sẵn sàng cung cấp hỗ trợ không muộn hơn buổi sáng ngày 15 tháng 5. Mặc dù Đại đội Bravo đã tới Đồi 916 ngày 15 tháng 5, nó đã không tham gia tấn công cho đến ngày 19 tháng 5 do rừng rậm gần như không thể di chuyển.
12 giờ trưa ngày 13 tháng 5, đại đội 6 QĐNDVN phát hiện một tốp lính Mỹ trong hố bom dưới "yên ngựa", đang dùng ống nhòm quan sát lên đỉnh A Bia. 20 phút sau bộ binh Mỹ kéo ra ken dày dưới "yên ngựa". Đợi lính Mỹ dưới hố bom leo lên, đại đội trưởng Nguyễn Tuấn phát lệnh cho chiến sĩ công binh điểm hỏa. Năm quả mìn định hướng nổ cùng lúc. Trong màn khói đen đặc, bộ binh lao lên đánh vỗ mặt nhóm đi trước, khẩu đội cối 82mm đánh chặn phía sau. Quân Mỹ bỏ chạy theo triền đồi. Tiểu đội trưởng Tới cùng tiểu đội đánh thốc vào sườn quân Mỹ. Đại đội 1 tiểu đoàn 501 lữ dù 3 bị xóa sổ. Quân Mỹ vội trực thăng vận 2 đại đội khác đổ xuống chân điểm cao A Bia nhặt xác đồng đội, nhưng trời đã tối nên phải quay về vị trí cũ.
Sau trận chiến đấu của đại đội 6 ở A Bia, phương án tác chiến được khẳng định. Quân Mỹ tiếp tục phản kích lên A Bia và các điểm cao 903, 916. Ban chỉ huy QĐNDVN quyết định tiếp tục sử dụng tiểu đoàn 8 chốt ở A Bia và tiểu đoàn 7 giữ điểm cao 903, đưa tiểu đoàn 9 vào hoạt động ở A Lê Thiêm, A Lê Lốc, đồng thời dùng đặc công liên tục tập kích vào các vị trí đóng quân của Mỹ. Thực hiện chủ trương của trung đoàn, đêm ngày 13 rạng ngày 14 tháng 5, đại đội 20 đặc công tập kích vào sở chỉ huy tiểu đoàn 2 trung đoàn 506 ở điểm cao 1078, diệt một số sĩ quan và lính pháo Mỹ, phá huỷ một trận địa pháo 105mm.
Ngày 13 tháng 5, lữ dù 3 Mỹ tổ chức phản kích vào các điểm cao 903 và 916. Tiểu đoàn 7 do tiểu đoàn trưởng Tăng Văn Miêu và chính trị viên Trần Triền chỉ huy, bám đánh từ xa. Trong thế xen kẽ, chiến sĩ tiểu đoàn 7 liên tiếp tập kích tiêu hao sinh lực Mỹ, khiến lính Mỹ không dám đi lùng sục, phải thường xuyên di chuyển vị trí, gọi pháo chi viện tạo nên vành đai hỏa lực xung quanh vị trí trú quân.
Ngày 14 tháng 5, QĐNDVN tổ chức phân đội hỏa lực 12 khẩu gồm B-40, B-41, cối 82, cối 60 ly, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Trung đoàn phó Nguyễn Hoán bất ngờ tập kích mãnh liệt vào đội hình co cụm của 1 đại đội Mỹ cách điểm cao 916 hai km về phía đông, gây thiệt hại nặng 1 đại đội Mỹ, làm rối loạn ý đồ chuẩn bị đánh chiếm điểm cao 916 của tiểu đoàn 2 dù Mỹ.
Trên hướng A Bia, sau khi dùng bom, pháo bắn phá dọn đường suốt hai ngày 13 và 14 tháng 5, quân Mỹ sử dụng tiểu đoàn 1 trung đoàn 101 chia làm hai mũi tiến công lên A Bia.
Trên hướng đông nam, đợt phản kích của 2 đại đội Mỹ cũng bị đại đội 6 ghìm chân dưới "yên ngựa" bằng những bãi mìn và đạn cối. Khi quân vượt được lên "yên ngựa", mon men vào gần tới đỉnh, đại đội 6 đồng loạt nổ súng. Chiến sĩ trung liên Nguyễn Văn Kiên, xạ thủ B-40 Đậu Văn Nga bình tĩnh kết hợp với bộ binh nổ súng vào đội hình diệt nhiều lính Mỹ. Bị đánh gần và bất ngờ, lính Mỹ lùi xuống chân điểm cao, gọi pháo chi viện.
Biết lữ đoàn dù 3 Mỹ đang dồn nỗ lực chiếm A Bia, từ ngày 15 tháng 5 trở đi, tiểu đoàn 8 tranh thủ thời gian giữa hai đợt phản kích đào hầm, phát triển tuyến chốt sang hướng sườn tây bắc điểm cao A Bia nhằm tránh pháo Mỹ từ phía đông bắc bắn tới. Hầm hào được xây dựng nửa nổi, nửa chìm, có hầm ngủ, hầm chiến đấu nhiều tầng, nhiều lớp. Cơ quan trung đoàn và các đơn vị trực thuộc thay nhau lên A Bia giúp tiểu đoàn 8 xây dựng hầm hào. Với hệ thống công sự này, tiểu đoàn 8 nấp mình trong lòng đất đã tránh được bom pháo Mỹ ngày đêm cày nát ngọn đồi, tổ chức phản kích bẻ gãy hàng chục đợt tiến công của quân Mỹ. Quân Mỹ với sự hỗ trợ của bom napalm, súng phun lửa, pháo không giật bị buộc phải tiến với một tốc độ rất chậm, mỗi công sự chiếm được đều phải trả giá đắt. QĐNDVN cũng tổ chức quanh bãi đáp trực thăng của Mỹ, bắn rơi hoặc bắn hư hỏng nhiều máy bay trực thăng dù chỉ có vũ khí hạng nhẹ và súng phóng lựu.
Sau 3 ngày bị chặn đứng trước các chốt "chết chóc" ở A Bia, quân Mỹ thay đổi chiến thuật. Vừa dùng phi pháo đánh ác liệt vào trận địa chốt, vừa dùng lực lượng cấp đại đội đánh vào các điểm cao 916, 900, nhằm bao vây cô lập tiểu đoàn 8, sau đó dùng lực lượng lớn tiến công, đánh chiếm A Bia.
Trưa ngày 15 tháng 5, trực thăng Mỹ đổ 1 đại đội (Đại đội Bravo) thuộc tiểu đoàn 1 lữ dù 3 xuống điểm cao 916, đồng thời tung 2 tiểu đoàn vào hướng điểm cao 900, phối hợp lấn dần sang A Bia, cùng tiểu đoàn 2 trung đoàn 506 tổ chức phản kích. Hai bên giành giật nhau suốt hai ngày liền. Quân Mỹ ba lần thay quân, lực lượng QĐNDVN cũng vơi dần, hầm hào sụt lở, không kịp củng cố. Các chốt của tiểu đoàn 8 mất dần, nhất là hướng chốt đại đội 8. Tuy vậy QĐNDVN vẫn giữ được A Bia.
Tiểu đoàn 8 bị cắt rời khỏi đội hình trung đoàn. Ban chỉ huy tiểu đoàn hội ý quyết định để đại đội 6 tiếp tục củng cố trận địa, đánh địch từ hướng bắc; rút đại đội 7 ra tăng cường cho chốt ở điểm cao 991, đại đội 5 bổ sung cho chốt đại đội 8, số còn lại làm lực lượng dự bị. Đồng thời tiểu đoàn điện báo cáo về trung đoàn: "Tình hình có khó khăn, thương binh không chuyển được, đạn thiếu, lực lượng cơ động không có. Chỉ có khả năng giữ đến sáng 17 tháng 5. Hướng rút lui phía nam A Bia".
Thường vụ Đảng ủy Trung đoàn 3 họp bất thường tối ngày 15 tháng 5 cân nhắc kỹ tình hình. Lữ dù 3 Mỹ đã bị động đối phó về mặt chiến thuật, từ chỗ chủ động lùng sục tìm diệt phải quay sang đánh chiếm mục tiêu đúng như ý định của QĐNDVN. Cuộc họp kết luận: "Sau gần một tuần, quân Mỹ đã bị tiêu hao nhiều sinh lực, tinh thần giảm sút. Ta tuy có khó khăn, nhưng đây là thời cơ để trung đoàn thực hiện phương án tác chiến vận động tấn công kết hợp chốt toàn trung đoàn, nhằm tiêu diệt nhiều sinh lực Mỹ, quyết biến A Bia thành mồ chôn lính dù Mỹ."
Ban chỉ huy trung đoàn lệnh cho tiểu đoàn 8 tiếp tục giữ A Bia, thu hút địch, tạo điều kiện cho hai tiểu đoàn 7 và 9 cùng các đại đội hỏa lực lật cánh sang phía nam A Bia vận động tấn công vào sườn quân Mỹ; trước mắt phải đánh bật đại đội Mỹ ở điểm cao 916 để lập lại thế liên hoàn toàn trung đoàn.
Tiểu đoàn 8 đã chấp hành mệnh lệnh của trung đoàn trưởng, suốt hai ngày 16 và 17 tháng 5, nhiều trận đánh diễn ra liên tiếp trong khu vực đồi 903, 916 và phía nam A Bia. Ngày 16 tháng 5, trung đoàn tập trung 16 khẩu cối, B-40, B-41 và đại liên 12,7mm tập kích bất ngờ vào đại đội Mỹ ở Động Chuối, Mỹ phải đưa 4 trực thăng lên giải quyết hậu quả.
9 giờ ngày 17 tháng 5, đại đội 2 tiểu đoàn 7 do đại đội trưởng Cao Xuân Nước và chính trị viên Trần Văn Quang chỉ huy, bí mật đạp rừng, bất ngờ tiến công 1 đại đội Mỹ ở điểm cao 916. Với lối đánh gần, xung phong mãnh liệt, đại đội 2 đánh bật quân Mỹ ở mỏm 1, số sống sót chạy sang mỏm 2. Trong khi truy kích, chiến sĩ Nguyễn Văn Duyệt dẫn đầu đội hình đại đội, sử dụng trung liên diệt hàng chục lính Mỹ. Quân Mỹ bỏ mỏm 2 chạy dạt xuống chân điểm cao, vấp phải chốt của đại đội 5, thêm 30 lính bị diệt. Hai giờ chiều ngày 17 tháng 5, quân Mỹ ở 916 bị quét sạch. Hành lang giữa 916 và A Bia đã khai thông. Đường sang tiểu đoàn 8 lại được mở. Chỉ huy lữ dù 3 chưa hay biết gì về số phận đại đội Mỹ trên điểm cao 916 nên vẫn cho trực thăng đổ quân tiếp ứng cho đại đội này, nên bị đại đội 2 bắn cháy 2 trực thăng và lính đi cùng.
Thời gian này, ở hướng A Bia cũng diễn ra trận chiến đấu ác liệt. Mỹ cố đánh chiếm A Bia để gỡ thể diện và để nhặt xác đồng đội tử trận suốt hai ngày qua. Sau khi cắt rời tiểu đoàn 8 khỏi đội hình Trung đoàn 3, lữ dù 3 Mỹ cùng tiểu đoàn 2 và hai đại đội thuộc tiểu đoàn 3 trung đoàn 506 bâu quanh A Bia thay nhau phản kích. Mỹ không dùng chiến thuật "cơn sóng lớn áp đảo đối phương" nữa mà thực hiện chiến thuật "sóng liên hồi" nhằm gây căng thẳng dẫn đến suy sụp về ý chí và tinh thần, buộc QĐNDVN phải mệt mỏi mà rút bỏ A Bia.
Trong hai ngày 16 và 17 tháng 5, các trận địa pháo Mỹ dọc đường số 12 hướng về A Bia trút đạn, bắn cả đạn hóa học gây chảy nước mắt, nước mũi. Trận phản kích cuối cùng trong ngày 17 tháng 5 diễn ra lúc 15 giờ. Quân Mỹ chia làm 4 mũi, dùng đạn hóa học đánh lên A Bia. Hướng đại đội 6, trên mỏm 1 còn 5 chiến sĩ do đại đội phó Trần Văn Lợi chỉ huy, mặc dầu bị nhiễm độc nhẹ vẫn linh hoạt cơ động khắp trận địa, sử dụng nhiều loại vũ khí, liên tiếp đánh bật nhiều đợt phản kích, giữ vững trận địa. Mỏm 3 còn 8 chiến sĩ dưới sự chỉ huy của tiểu đội trưởng Mai Nam Thắng chống trả với 1 đại đội Mỹ, diệt hàng chục lính. Kết thúc đợt tiến công, tiểu đội chỉ còn 3 người. Đến 16 giờ, 1 đại đội Mỹ được phi pháo yểm trợ lại tiến công lên chốt. Nguyễn Trọng Phản dùng AK diệt hai lính đi đầu, đồng thời nổ mìn định hướng quét gọn nhiều lính Mỹ. Hoàng Văn Đợi bồi tiếp một quả B-40 diệt thêm một số. Trần Huy Dựa quét trung liên vào số sống sót đang bỏ chạy xuống chân đồi, trận địa chốt vẫn được ba chiến sĩ giữ vững.
Ở hướng đại đội 7, phía nam A Bia chiến sĩ Nguyễn Văn Hiệu một mình đảm nhiệm một hướng, sử dụng một lúc ba loại súng bộ binh. Trong ngày 17 tháng 5, ba lần bị bom vùi, Hiệu vẫn vùng dậy tiếp tục chiến đấu. Hiệu được ghi nhận đã diệt 38 lính Mỹ trước trận địa của mình, giữ vững trận địa cuối cùng.
Trong lúc quân Mỹ còn tập trung vào hướng các đại đội 5 và 6 thì đại đội 2, tiểu đoàn 7 bất ngờ tiến công vào sườn trái đội hình phản kích của 1 đại đội Mỹ, hất xuống chân điểm cao. Đợt phản kích cuối cùng của Mỹ lên A Bia trong ngày 17 đã bị bẻ gãy.
Tức giận vì bị cầm chân suốt 5 ngày, các chỉ huy lữ đoàn Mỹ đã ra lệnh một cuộc tấn công phối hợp hai tiểu đoàn vào 18 Tháng Năm, với tiểu đoàn 1/506 tấn công từ phía nam và 3/187 tấn công từ phía bắc, cố gắng để cô lập lực lượng đối phương. Đại đội Delta của tiểu đoàn 3/187 được không vận tới gần ngọn đồi, nhưng bị tập kích và thương vong nghiêm trọng, bao gồm tất cả các sĩ quan của mình. Từ một máy bay trực thăng quan sát, chỉ huy tiểu đoàn đã cố gắng phối hợp các các đại đội khác vào một cuộc tấn công cuối cùng, nhưng một trận mưa dữ dội làm giảm khả năng yểm trợ không quân và kết thúc trận đánh. Tiểu đoàn 3/187 một lần nữa phải rút lui xuống núi. Ba đại đội của tiểu đoàn 1/506th chiến đấu để giành điểm cao 900, phía nam của đỉnh núi, cũng gặp phải sự kháng cự mạnh.
Bởi thương vong nặng nề trong 1 tuần và chịu áp lực từ sự chú ý không mong muốn báo chí, một số chỉ huy nghiêm túc xem xét việc ngừng các cuộc tấn công. Cả hai tư lệnh quân đoàn và tư lệnh MACV, Tướng Creighton W. Abrams, công khai ủng hộ quyết định này. Nhưng các chỉ huy tại chỗ lại cảm thấy sẽ bị bẽ mặt khi phải rút lui bởi một lực lượng đối phương nhỏ bé hơn nhiều. Vậy là Zais quyết định tiếp tục tấn công, tung ba tiểu đoàn mới vào chiến đấu thay thế cho những đơn vị đã thiệt hại nặng. Tiểu đoàn 3/187 thiệt hại nghiêm trọng, với khoảng 320 thiệt mạng và bị thương, chiếm hơn 60% trong số 450 binh sĩ có kinh nghiệm ban đầu. Hai trong số bốn chỉ huy đại đội và tám trong số mười hai trung đội trưởng đã thương vong.
Quân đội Nhân dân VIệt Nam rút lui
Sau 1 tuần chiến đấu, 2 tiểu đoàn QĐNDVN đã hoàn thành mục tiêu được giao là tiêu diệt một lượng đáng kể lính Mỹ. Như chiến lược chung trong những trận đánh với Mỹ, QĐNDVN không cố gắng giành giật trận địa ((fact)) mà chỉ cố gắng gây thương vong tối đa cho địch trước khi tổ chức rút lui để tránh bị hỏa lực và sức cơ động vượt trội của Mỹ bao vây tiêu diệt. Kế hoạch ban đầu là rút vào đêm 17 nhưng các đơn vị đã hoàn thành tốt và kéo dài thêm được 1 ngày. Đêm 18, QĐNDVN bắt đầu tổ chức rút lui khỏi trận địa núi A Bia, chỉ để lại một bộ phận nhỏ làm nghi binh.
Ngày 19 tháng 5, 2 tiểu đoàn bộ binh đã được không vận vào bãi đáp đông bắc và phía đông nam của của núi. Cả hai tiểu đoàn ngay lập tức di chuyển lên núi để tới các vị trí mà từ đó họ sẽ tấn công vào sáng hôm sau. Trong khi đó, tiểu đoàn 1/506 dùng ngày thứ ba liên tiếp để bảo đảm an toàn cho điểm cao 900.
Lữ Đoàn 3 đưa ra bốn tiểu đoàn của mình tấn công vào lúc 10:00 ngày 20 Tháng Năm, bao gồm cả hai đại đội của 3/187 được tăng cường bởi đại đội Alpha 2/506. Các cuộc tấn công được hỗ trợ bởi hai giờ không kích và chín mươi phút nã pháo. Các tiểu đoàn tấn công đồng thời, 12:00 tiểu đoàn 3/187 lên tới đỉnh. Đơn vị nhỏ làm nhiệm vụ nghi binh còn lại của QĐNDVN sau khi nổ súng cầm chân quân Mỹ đã rút sang Lào theo đơn vị chính, và Đồi 937 được quân Mỹ nắm giữ vào 17:00.((fact))
Kết quả
Quân Mỹ hao tổn hàng trăm sinh mạng nhưng rốt cục chỉ chiếm được một ngọn đồi không có giá trị về quân sự. Thiếu tướng John M. Wright lặng lẽ ra lệnh rút khỏi đồi ngày 5 tháng 6. Các cuộc tranh luận về "Hamburger Hill" diễn ra tại Quốc hội Hoa Kỳ, với những lời chỉ trích đặc biệt nghiêm trọng của các thượng nghị sĩ Edward Kennedy, George McGovern, và Stephen M. Young. Edward Kennedy gọi đây là "Cuộc hành quân điên rồ và vô trách nhiệm. Sinh mạng của binh sĩ Mỹ đã bị phung phí chỉ để thể diện nhà binh cho các sĩ quan chỉ huy"
Báo chí Mỹ ngày 25 tháng 5 năm 1969 gọi A Bia là "Đồi thịt băm của lính dù Mỹ", lên án quân đội Mỹ ném quân lên vùng núi A Bia chỉ để biến cuộc hành quân "Tuyết rơi trên đỉnh núi" (Apache Snow) thành "Máu rơi trên đỉnh núi". Trong số 27 tháng 6, Tạp chí Life đã công bố những bức ảnh của 241 lính Mỹ thiệt mạng trong một tuần tại Việt Nam, được coi là một bước ngoặt của chiến tranh. Dù chỉ có một phần trong số này là thương vong trên Hamburger Hill, nhiều người Mỹ đã nhận thức rằng tất cả những người chết đều là nạn nhân của "trận đánh điên rồ và vô nghĩa" này.
Tranh cãi về trận Hamburger Hill đã dẫn đến một đánh giá lại chiến lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Như một kết quả trực tiếp, để giữ thương vong không cao quá mức, Tướng Abrams ngừng chính sách "áp lực tối đa" chống lại Quân đội nhân dân Việt Nam, trong khi Tổng thống Richard Nixon đẩy nhanh thực hiện chiến lược mới là Việt Nam hóa chiến tranh, và tuyên bố đợt rút quân viễn chinh đầu tiên. Mặc dù trận đánh chỉ ở mức tiểu đoàn, song nó đã trở thành một bước ngoặt trong chiến tranh Việt Nam.
Với QĐNDVN, những kết quả thu được trong trận đánh ở A Bia và đợt hoạt động phản công của Sư đoàn 324 ở vùng thung lũng A Lưới đã cổ vũ và thúc đẩy phong trào đánh phá "bình định" đang phát triển ở các địa phương. Chiến thắng A Bia đã đi vào trang sử truyền thống đầu tiên của sư đoàn 324 kể từ khi được tổ chức lại và là mốc mở đầu cho giai đoạn khôi phục lại thế trận xuống đồng bằng, lập lại thế ba vùng chiến lược sau Tết Mậu Thân 1968.