Mưu trí, sáng tạo, biết khai thác tối đa điểm yếu của đối phương, bộ đội phòng không Việt Nam đã vô hiệu hóa thành công chiến thuật áp chế phòng không của Mỹ.
Vào năm 1965 khi Mỹ gia tăng các hoạt động leo thang đánh phá miền Bắc, số lượng máy bay Mỹ bị bắn hạ bởi hỏa lực phòng không mặt đất ngày càng trở nên nhiều hơn.
Để giảm tần suất máy bay bị bắn hạ bởi hỏa lực phòng không mặt đất Bắc Việt, Tướng Kenneth Dempster đã đề xuất sử dụng chiến thuật săn lùng và bắn hạ các trạm radar cảnh giới của lực lượng phòng không Bắc Việt nhằm bịt “con mắt” theo dõi trên không này.
Chiếc F-4 Phantom được trang bị tên lửa chống bức xạ AGM-45 Shrike cho nhiệm vụ săn lùng và tiêu diệt các đài radar cảnh giới và điều khiển hỏa lực của phòng không Việt Nam.
Những trạm radar này thường được sử dụng để cảnh giới phát hiện máy bay và dẫn đường cho tên lửa và pháo phòng không bắn hạ các máy bay Mỹ. Nhiệm vụ này được đặt mật danh là Wild Weasel (Chồn hoang), còn được gọi là chiến thuật áp chế phòng không đối phương SEAD.
Để phục vụ cho chiến thuật này, Mỹ đã phát triển thành công một loại tên lửa không đối đất có khả năng tự dẫn đến nguồn phát sóng radar và tiêu diệt nó. Tên lửa được đặt tên là AGM-45 Shrike (bộ đội ta thường gọi là sơ- rai) còn được gọi là tên lửa chống bức xạ hoặc tên lửa chống radar.
Tên lửa AGM-45 Shrike có nguyên tắc hoạt động khá đơn giản, chỉ cần hướng tên lửa đến nguồn phát bức xạ (sóng radar), đầu dò của nó sẽ tự dẫn tên lửa đến chổ mục tiêu và phát nổ với độ chính xác rất cao.
Tên lửa có tầm bắn tối đa 48km, biến thể nâng cấp có tầm bắn khoảng 72km. AGM-45 trở thành vũ khí hiệu quả trong việc áp chế khả năng chiến đấu của lực lượng phòng không Việt Nam
Vô hiệu hóa sơ-rai
Khi mới lần đầu xung trận, tên lửa AGM-45 đã tạo được bất ngờ và gây nhiều thiệt hại cho các đài radar cảnh giới và radar điều khiển hỏa lực của phòng không Việt Nam. Trong khi đó chúng ta gần như không nắm được tài liệu kỹ thuật nào về nguyên tắc hoạt động của tên lửa.
Những chiếc F-105G Wild Weasel với tên lửa AGM-45 Shrike đã trở thành một điển hình cho chiến thuật áp chế phòng không mà Không quân Mỹ thực hiện tại Việt Nam nhằm vô hiệu hóa khả năng chiến đấu của phòng không Bắc Việt.
Khả năng đánh phá của tên lửa sơ-rai thậm chí còn gây nhiều hoang mang cho bộ đội radar, ngại mở radar phát sóng vì sợ tên lửa sơ-rai. Trong khi chưa tìm được điểm yếu của loại tên lửa này thì Việt Nam đã thu được chiến lợi phẩm là tên lửa sơ-rai còn nguyên vẹn từ chiếc F-4 bị bắn hạ.
Điểm yếu của loại tên lửa này nhanh chóng được các cán bộ kỹ thuật của Viện Kỹ thuật quân sự chỉ ra. Do hoạt động theo nguyên lý tự dẫn đến nguồn phát bức xạ nên chỉ cần tắt đài radar lập tức tên lửa sơ-rai bị mất phương hướng.
Mặt khác khi tên lửa sơ-rai được phóng đi nó hiển thị rất rõ trên màn hình radar, bằng sự mưu trí và dũng cảm, bộ đội radar và tên lửa sẽ căn cứ vào khoảng cách của sơ-rai so với đài điều khiển để tiếp tục phát sóng hay tắt máy để tên lửa mất mục tiêu. Trong trường hợp nếu tên lửa sơ-rai cách đài điều khiển còn xa mà tên lửa SA-2 của ta phóng lên đã gần mục tiêu thì sẽ tiếp tục điều khiển tên lửa đến mục tiêu sau đó mới tắt máy để vô hiệu hóa sơ-rai.
ừ đó về sau, tên lửa sơ-rai không còn đáng sợ như trước nữa, hiệu quả tác chiến của nó cũng giảm sút một cách nghiêm trọng. Lực lượng phòng không Việt Nam đã bảo toàn được khả năng chiến đấu tiếp tục bẻ gãy nhiều cuộc tập kích bằng đường không của Mỹ.
Vạch nhiễu tìm thù
Một chiến thuật áp chế phòng không khác mà Mỹ từng áp dụng tại Việt Nam là áp chế điện tử. Dùng các biện pháp gẫy nhiễu tích cực, nhiễu tiêu cực khiến các đài radar cảnh giới và điều khiển hỏa lực của Việt Nam không bắt được mục tiêu để dẫn bắn cho tên lửa phòng không SA-2.
Bằng sự mưu trí, sáng tạo, dũng cảm, bộ đội phòng không Việt Nam đã vô hiệu hóa thành công chiến thuật áp chế phòng không của Mỹ,bảo toàn lực lượng chiến đấu, bẽ gãy nhiều cuộc tập kích đường không quy mô lớn của Mỹ.
Người Mỹ đã thiết kế một loại máy bay chuyên dụng cho nhiệm vụ này là E/A-6B, nó được trang bị đậm đặc các thiết bị điện tử cho nhiệm vụ gây nhiễu hệ thống radar cảnh giới, phá hoại tần số rãnh đạn của radar điều khiển hỏa lực.
Tuy nhiên, với sự thông minh, sáng tạo cùng quá trình mỗ xẽ nghiên cứu một cách kỹ lưỡng các hoạt động gây nhiễu của Không quân Mỹ với sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô. Bộ đội radar vẫn “vạch mặt” được kẻ thù trong cái mớ hỗn độn các loại nhiễu mà chúng gây ra.
Đặc biệt, trong chiến dịch Điện Biên Phủ trên không năm 1972 có thể coi là điển hình cho chiến thuật áp chế và chống áp chế hệ thống phòng không giữa Không quân Mỹ và lực lượng phòng không Việt Nam. Đây có thể coi là một trận đối đầu“siêu kinh điển” của chiến thuật SEAD và chống SEAD. Đến nay đã 40 năm trôi qua vẫn chưa có một chiến dịch không kích nào với quy mô đủ lớn để so sánh.
Trong khi Mỹ dồn tất cả những vũ khí hiện đại nhất của mình thời đó để áp chế bằng được khả năng chiến đấu của lực lượng phòng không Việt Nam thì phía Việt Nam cũng tìm mọi cách để vô hiệu hóa chiến thuật này của Mỹ.
Song với sự thông minh sáng tạo, mưu trí, dũng cảm biết khai thác vào điểm yếu của đối phương, đánh vào những chỗ chúng không ngờ tới. Bộ đội phòng không Việt Nam đã bẽ gãy chiến thuật áp chế phòng không của Không quân Mỹ, đập tan cuộc tập kích đường không lớn nhất từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 góp phần quan trọng trong công cuộc giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.